Hồi ký: Thép Đen - Đặng Chí Bình
LGT: Lịch sử nửa thế kỷ ngăn chặn làn sóng cộng sản bành trướng ở Miền Bắc, xâm lăng ở Miền Nam, đã tạo nên nhiều anh hùng, trong đó có không biết bao nhiêu anh hùng âm thầm, cô đơn, một mình một bóng, phải vật lộn giữa vòng vây đầy thù hận của kẻ thù, mà vẫn một lòng một dạ giữ tròn khí tiết cùng tấm lòng thuỷ chung đối với tổ quốc, dân tộc, đồng đội... Đặng Chí Bình, bút hiệu của một điệp viên VNCH được lệnh thâm nhập Miền Bắc, móc nối các tổ chức kháng chiến chống cộng, chẳng may lọt vào tay kẻ thù, và phải trải qua gần 20 năm trong lao tù cộng sản, là một trong những người anh hùng âm thầm, cô đơn trên con đường đấu tranh chống cộng sản đầy máu và nước mắt nhưng vô cùng cao thượng và chan hoà lòng nhân ái, của dân tộc Việt Nam. Giống như tất cả những ai có lòng yêu nước, đã sống trong lao tù của cộng sản, đều âm thầm tự trao cho mình sứ mạng, tiếp tục chiến đấu chống lại cái tàn nhẫn bất nhân của chủ nghĩa cộng sản đến hơi thở cuối cùng, điệp viên Đặng Chí Bình, sau khi ra hải ngoại, đã tiếp tục miệt mài suốt 20 năm để hoàn thành thiên hồi ký Thép Đen dầy ngót 2000 trang, gói ghém tất cả những bi kịch phi nhân đầy rùng rợn trong chế độ lao tù cộng sản mà tác giả đã trải qua; đồng thời thắp sáng chân lý: Ngay cả trong những nơi tận cùng của tăm tối, phi nhân, đói khát, đầy thù hận nhất do chế độ cộng sản tạo dựng, tình yêu thương người, lòng hướng thiện, khát khao cái đẹp, tôn thờ chân lý vẫn luôn luôn hiện hữu và được ấp ủ, trong lòng người dân Việt. Nhận xét về thiên hồi ký Thép Đen, thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đã xúc động nhận xét: "Chúng ta đã được đọc khá nhiều hồi ký của những người cựu tù trong chế độ lao tù Cộng Sản. Mỗi cuốn hồi ký là một mặt của vấn đề, nhưng theo tôi, "Thép Đen" là cuốn hồi ký trung thực nhất về những điều mà người tù mấy chục năm Đặng Chí Bình đã phải trải qua. Những sự việc được tả chân, những tâm tư được diễn tả chân thực mà mỗi người cựu tù khi đọc đều thấy có mình trong đó." Nhân dịp tác giả Đặng Chí Bình đến Úc, Sàigòn Times hân hạnh được ông chấp thuận cho phép đăng tải thiên hồi ký Thép Đen vô cùng hào hùng, sống động và đầy lôi cuốn của ông. SGT xin chân thành cảm ơn tấm lòng ưu ái đặc biệt của tác giả, và sau đây, xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả phần tiếp theo của thiên hồi ký Thép Đen.
*
(Tiếp theo...)
Anh quay lại tôi, giọng khẳng khái:
- Nói thực với anh, ở ngoài đồng, do vô ý chúng tôi làm đổ mấy lọn rau xuống đất. Cán bộ không cho đưa vào sọt rau, ông ấy bảo "hai anh xuống suối rửa cát đi mà ăn". Tôi và anh Can đã ăn mỗi người, hơn một bát.
Thấy anh nhiệt tình, và không để anh nói nhiều, tôi cầm bát rau nhưng dứt khoát không nhận bát con ngô xay. Buổi tối, tôi đến chuyện trò và cảm ơn anh Khìm, tôi được biết sơ lược về toán biệt kích, của anh ra Bắc:
Toán của anh là EAGLE ra Bắc ngày 28- 6- 1964, nhảy ở Lạng Sơn. Toán anh gồm 6 người: Hứa Viết Khìm toán trưởng, kiêm truyền tin trưởng, 1982 anh đã được tha về Sài Gòn. Anh bị bịnh chết năm 1992. Bế Viết Quang đã chết ở Sài Gòn năm 1995. Lã Văn Hoàng hiện ở Hoa Kỳ. Đàm văn Phình chết ở trong tù năm 1967. Lý A Phổ 79 tuổi (2004) hiện đang ở Malden, tiểu bang MA. Anh vẫn thường đến tôi chơi. Nguyễn Viết Dũng toán phó hiện ở TX.
Một chuyện cũng hơi riêng biệt của anh Hứa Viết Khìm. Trần văn Mạo tức Mạc trong toán KERN ra Bắc 4- 3-1966. Khi được tha về Sài Gòn ở nhà anh Khìm, rồi nên duyên chồng vợ với người con gái lớn của anh Hứa Viết Khìm. Hiện nay hai vợ chồng Mạc đã ở Hoa Kỳ (April 2004).
Chiều nay lại có một nguồn tin mới, tối mai thứ Bẩy, trại có buổi văn nghệ đặc biệt do anh em bên Z trình diễn. Chúng tôi cũng khao khát và háo hức lắm! Muốn thưởng thức phần nào cái hơi hướng của VNCH đã lâu ngày, đã chôn sâu vào cái hố quên lãng. Tâm trạng của chúng tôi khác hẳn với những buổi văn nghệ trước đây, chúng tôi phải đi tham dự như một sự bắt buộc. Nếu không đi sẽ bị quy vào tội tư tưởng, không muốn tham dự vào mạch sống cách mạng, của một xã hội mới của Đảng.
Đặc biệt buổi văn nghệ này, lại có dân chúng và những cơ quan địa phương, cũng được mời vào tham dự. Nơi trình diễn lại ở một bãi rộng, cách xa cổng trại giam gần một cây số.
Mười sáu: Yêu lầm, chột một đời
Khi chúng tôi từ khu biệt kích ra tới cổng trại; xa xa trong đám tối của những mái nhà tranh, của những lũy tre làng, có một khoảng sáng bật lên. Từ chỗ vùng ánh sáng đó, tiếng trống, tiếng kèn, đã văng vẳng nhào qua những cánh đồng, mời gọi khách lãm du, hãy rảo bước. Lòng chúng tôi cũng dấy lên một chút xốn xang. Dù đã tối, tôi vẫn thấy cái mênh mông, của đất trời rộng mở. Từng làn gió nhẹ, khe khẽ đưa cái hơi nồng của ruộng đồng, đến từng mũi mọi người.
Công An Vũ Trang với súng ống kè kè sau lưng, hôm nay cũng được tăng cường thật dầy. Tù nhân được lệnh tuyệt đối không được di chuyển, phải ngồi tại chỗ trong đội của mình theo nơi đã được quy định. Chỗ đi tiểu tiện, đã được quây cót, ở ngay phía sau mỗi khu.
Sau những thủ tục khai mạc của một trại tù như trước đây, đến phần trình diễn văn nghệ. Tôi đã hiểu đó là điều tất yếu của một trại tù trong chế độ VC. Chính tù, được xem anh em trình diễn, vừa được nghỉ ngơi mà vẫn còn, thấy ngán ngẩm. Hết ca ngợi quê hương 5 tấn, lại thúc giục xây dựng nhà máy, công nông trường.
Mãi gần về cuối, có một tiết mục hơi lạ. Hợp ca của khoảng 6 - 7 chục người. Các anh Z khéo chọn lựa, có đến 5 - 6 bè rõ rệt. Bè thì ồ ồ như tiếng xe cam - nhông đang chạy, bè thì nghe róc rách như nước suối chảy lưng đèo, bè nghe như tiếng chim non kêu gọi mẹ, vì đói ăn. Có bè réo rắt như tiếng sáo Thiên Thai của Văn Cao thời tiền chiến. Không những làm cho chúng tôi say mê đờ đẫn, mà còn làm cho lũ cán bộ và những người dân quanh vùng, mắt thao láo, mồm há hốc ra, như miệng của những con ếch đang gọi mưa.
Cả một đám đông hàng ngàn người, mà tôi còn nghe được tiếng quang quác, của những đàn ngỗng trời bay ngang. Một sự việc cũng qúa đặc biệt, trước đây tôi chưa từng thấy. Theo lời người điều khiển chương trình, là ông phó chủ tịch Huyện, muốn có vài lời với mọi người.
Một ông chừng 50 tuổi, người bé nhỏ, nhưng nước da như người Ấn Độ, ông nói rất từ tốn và rõ ràng:
- Thưa các Đồng chí! Do một sự may mắn, tôi được thay đ/c chủ tịch Huyện đi công tác. Tôi được dự một buổi văn nghệ ngoài trời, của trại viên trại T52 này. Phải nói tôi chưa bao giờ được thưởng thức, một ban hợp ca đầy sáng tạo nghệ thuật mới lạ như hôm nay, tôi xin cám ơn các anh trại viên.
Những tiếng vỗ tay râm ran, dai dẳng làm cho lòng tôi cũng cuộn lên một chút tự hào, về cái miền Nam thân yêu đã mất của mình. Những ngày sau, tôi đã tìm mọi cách chuyện trò với tên cán bộ Hồng Thắng Tài để biết tên, hoặc một chút gì về cái ông Phó chủ tịch huyện, tối văn nghệ hôm ấy. Nhưng đành thất vọng, cho tới ngày biệt kích, rời khỏi trại T 52 Hà Sơn Bình này, vào mùa Đông 1978.
Vào khoảng gần cuối tháng 11 năm 1978. Tất cả 132 biệt kích lại được chuyển về xuôi phía Nam nữa. Hai chiếc xe tải dài ọp ẹp, chắc từ thời tôi còn chưa được mặc quần, khò khè nặng nề nhét chặt 132 anh chàng biệt kích chỉ còn da bọc xương, vào lòng mình. Chúng mò mẫm bò về phía Nam. Nhiều lúc, chắc vì năng qúa, vì phải đèo thêm hơn chục tên áo vàng và công an võ trang, chúng xịt cả khói đen ra đầy đường. Mấy bác nông dân gồng gánh đi đường, cũng phải bịt mũi, quắc mắt nhìn theo hai chiếc xe chết tiệt. Tay của tôi nối chặt với Quách Nhung, bởi một cái còng số 8. Xế trưa, qúa mỏi và đau tay, tôi ra hiệu kéo Nhung ra sát cửa sổ nhìn xuống đường, thoáng thấy một cột cây số sơn trắng, đầu đỏ đề: Thanh Hóa 59 cây số. Như thế đây là Quốc Lộ I. Từ thời Tây, ở miền Bắc các cột cây số trên đường lộ, đều sơn trắng. Đầu đỏ là Quốc Lộ; đầu xanh là Tỉnh Lộ.
Xe bắt đầu rẽ vào Tỉnh lộ, bóng chiều đã ngã muộn, gà bắt đầu lên chuồng. Xe leo qua một cái dốc dài rồi ngừng lại, ngay giữa rừng già Thanh Hóa. Nhìn theo một con đường nhỏ dài hơn 2 chục mét, chỉ có 3 mái nhà tranh dài, rào vây quanh cũng là tre với nứa. Rõ ràng là một trại giam mới chưa làm xong, còn 2 - 3 cái nhà nữa, mới chỉ có cái khung. Điều này đã nói lên, VC đã phải vội vàng đưa, những đám biệt kích này đến, không có dự trù trước. Đúng như vậy, vài ngày sau chúng tôi đã biết: Đây là trại Thanh Phong, tên một huyện miền núi của tỉnh thanh Hóa, chỉ là một trại giam nhỏ của Huyện, với hơn 100 tù hình sự.
Những ngày sau, tất cả chúng tôi đều phải làm thêm và làm tiếp những căn nhà lán tù, chưa làm xong. Lúc đầu trại chỉ có một cái giếng nhỏ đủ nước cho bếp nấu ăn. Tắm rửa, mỗi buổi chiều công an võ trang phải dẫn từng toán tù (đến đây lại gọi là toán) xuống hết một cái dốc đồi, dài hơn một cây số. Ở đấy có một giòng suối rộng có chỗ đến hơn 10 mét, với những tảng đá lớn lổm ngổm, ở giữa giòng. Tôi chưa biết giòng suối này tên là gì, nhưng ở các trại giam trên miền ngược, chưa bao giờ tôi được nhìn thấy một cái suối nào, to và đẹp như vậy.
Nhìn cheo chéo phía bên kia suối, có một cái guồng to tròn, như một cái bánh xe khổng lồ bằng gỗ. Hỏi những tên công an võ trang coi toán, tôi được biết đó là những cái guồng nước ở miền núi. Người ta dùng để lấy nước, từ dưới suối lên dẫn nước đi xa, có khi cho cả một xóm dùng.
Thời tiết đang ở giữa mùa Đông, nên trời còn lạnh ngóm. Tuy trong trại không có nước, nhưng rất nhiều anh, cả các anh dân tộc vẫn còn sợ nước. Các anh chỉ ở cạnh bờ suối, thò những miếng giẻ rách to, nhỏ nhúng nước thay cho khăn mặt, rồi lách vào trong áo, trong quần để lau người.
Ngược lại, Lê Văn Kinh, Quách Nhung, tôi và gần chục anh em nữa thì như "cờ gặp gió, cá gặp nước". Giữa trời, mây với cây rừng đá núi, chúng tôi đều trở lại thời tiền sử của loài người. Cả một lũ tồng ngồng, nhẩy xuống nước nhào lộn, vẫy vùng. Không những làm cho mấy tên công an võ trang (3 toán thì 3 tên) cũng lác cả con ngươi.
Tôi cũng thấy lạnh tê cả đầu, và cứng cả người, nhưng có lẽ qúa thèm khát nước lâu ngày. Cái từ bơi lội suốt 16 năm, coi như chúng tôi không còn hề nhắc đến. Ngay cái anh chàng Kinh là người Nhái mà cũng lạnh thun "gân" lại còn bé tí tị. Lên bờ rồi, nhìn người nhau còn bốc khói! Tôi cũng lấy làm lạ, tuy lạnh nhưng có lạnh qúa như trên Lào Cai, Yên Bái đâu? Có lẽ cái chính là vì qúa đói, cơ thể không có và không còn nhiệt để chống đỡ, với cái lạnh ở bên ngoài.
Những ngày sau, chúng tôi phải làm một căn lán thủ công 5 gian, cạnh con đường chính ra suối. Lán thủ công cách trại khoảng 300 mét. Tối hôm qua lại có 2 xe chở biệt kích đến Thanh Phong. Thật vui, gặp lại hầu hết anh em trước đây, ở các trại trên miền ngược.
Trại Thanh Phong bây giờ, riêng biệt kích cũng trên dưới 250 người. Lán mộc hoàn thành, toán mộc hàng ngang, cũng được thành lập. Toán mộc kỳ này tương đối là đông gồm 44 người, do tên Lê xuân Hoàn, trung sĩ phụ trách. Tên này người miền Bắc, cái mặt xám xịt, tỏ ra rất nghiêm khắc. Toán trưởng toán mộc lần này lại là một anh chính trị địa phương. Anh là Trần bá Đôn, một tu xuất, đã có vợ con. Anh đã từng là tổ trưởng mộc, của một cơ sở sản xuất, huyện Kim Anh.
Toán mộc lại tiếp tục những giường, bàn, tủ, ghế gọi là hàng ngang, khác với mộc làm nhà cửa. Tôi vẫn phụ trách tổ kỹ thuật, chuyên đóng hàng kỹ cho các cán bộ của trại. Tổ kỹ thuật chỉ có 3 người: Lầu Chí Chăn, Vũ viết Tinh (Tinh Còi) và tôi.
Vì là một trại mới trở thành quy mô, khi bất ngờ là nơi Cục Lao Cải chọn để quy tụ biệt kích gián điệp của VNCH cũ. Rất nhiều vấn đề thiếu thốn ở nơi giữa rừng già, cái thiếu bình thường nhưng lại trở thành nguy hiểm, là rau xanh. Với một số tù nhân đủ loại, trên dưới 500 như thế, mà lại không có rau xanh. Ngay tụi cán bộ, chừng gần 4 chục tên và khoảng hai đại đội công an võ trang, cũng còn thiếu rau xanh nữa là tù. Bởi thế nếu có chuyến xe con rau nào, tụi cán bộ phải bí mật lén lút, giấu để dùng dần. Còn mặc kệ tụi tù, làm sao quan trọng bằng cán bộ?
Chính vì lý do này mà trại tù Thanh Phong, đã nổi bật hơn các trại tù khác, ở một sự việc độc đáo: Hàng tháng không hề có rau, mà chỉ có toàn muối rang, hết pha thành nước, lại rang. Chung quanh không hề có những loại rau dại, như ở miền xuôi, hay nơi đã có giai đoạn, có người ở hay qua lại. Cho dù là người dân tộc, ở đây hoàn toàn giữa rừng già. Nhiều lúc tôi suy ngẫm, do luật bù trừ huyền bí của tạo hóa, thiên nhiên, nếu không có con suối trên tôi đã nói, thì rồi không biết sẽ ra sao, khi tù phải sống ở cái vùng khắc nghiệt, khác thường này?
Đầu tiên là đám tù hình sự, do còn trẻ, bản tính bất cần đời nên không có ý chí chế ngự, chịu đựng, ăn bậy bạ nhiều. Do những mánh lới chuyên nghiệp (lưu manh) đã kiếm được lá sắn, đôi khi kiếm được củ, thì sơi cả ruột lẫn vỏ. Một sự không may, có thể do những vườn sắn mới trồng, đất chưa thuần, còn hơi hướng, gốc rễ của những cỏ gianh (Tôi đã có kinh nghiệm hàng chục năm, ăn sắn). Cây sắn nào mà củ chui vào rễ cỏ gianh, ăn vào là say, nhức đầu nôn mửa, hay té re, tháo tỏng, nặng có khi là tử.
Một loạt các cậu tù hình sự bị nhức đầu, nôn mửa (hầu hết các em còn trẻ 18 đến 20 - 25). Tên cán bộ y tế của trại, lại chưa có kinh nghiệm, với loại say sắn! Y thấy hàng mấy chục người nôn mửa và nhức đầu. Y quýnh qúa, lấy Aspirin cho mỗi cậu 2 viên uống, để rồi sáng hôm sau chết một lúc 13 - 14 người. Chắc là cán bộ Đảng ủy của trại thấy trầm trọng, vội ưu tiên lập 3 đội, phá bỏ những loại cây trồng khác, chỉ chuyên đề trồng rau xanh. Ý muốn thì nhanh, nhưng hiện thực phải qua nhiều khâu. Phải cho cán bộ về thành phố kiếm tìm hạt giống, chuẩn bị đất để trồng v.v… Cho tới khi có rau ăn, cũng phải mất hàng nửa năm.
Riêng với khu biệt kích, dù sao đã là những người lớn, và tương đối có ý chí tự tồn, trong những điều kiện ngặt nghèo. Một đoạn đường rừng hơn một cây số, từ trại tù ra tới con suối (khi mới đến chúng tôi chưa biết tên, bây giờ chúng tôi biết đó là con sông Tràng. Con sông sau này đã gây ra nạn lụt 1981, trôi cả lán trại, trâu bò). Dù đã biết đó là con sông Tràng, nhưng chúng tôi vẫn gọi đó là con suối Tiên. Vì nó đã góp phần duy trì sự sống, sự tồn tại của anh em biệt kích. Đoạn đường này, hai bên đường là những cây rừng, hàng ngày các toán chúng tôi đều qua lại để ra suối, rửa ráy, tắm rửa sau một ngày lao động cực nhọc.
Qua mùa Đông 1978 để vào mùa Xuân 1979, những cây rừng cũng nẩy lộc, đâm chồi. Cũng giai đoạn này, qua những tin đồn người tiếp tế ở trong Nam, VN đã đánh chiếm Campuchia, tôi chợt nhớ đến 200 chiếc hộp hắc ín, ở trại T52.
Những chồi lộc của những loại cây rừng, mỗi ngày mơn mởn mỗi lớn, mỗi xanh tươi. Không biết là do ai? Trong anh em biệt kích, có thể là những biệt kích người dân tộc. Có lẽ các anh, cũng cùng tâm trạng như mọi người, nhưng do sáng kiến (Cùng thì phải tắc, tắc thì phải thông). Một anh đã hái một ít đọt lá non, của một cây rừng.
Hôm sau ra nơi lao động anh cho vào bô tôn, thùng thiếc, đổ nước, luộc rừ rồi ăn thử. Lúc đầu là thử nếm rồi nghe ngóng cơ thể, thấy không sao. Thế là cái loại cây đó được phổ biến cho bạn thân, mà đã ra người thứ hai, thì cả biệt kích đều biết, và ai cũng thấy. Các loại lá cây ấy, trên con đường từ trại ra "Suối Tiên" hết dần, và càng gần cuối thì tốc độ hết, càng nhanh. Để rồi ra cái chồi hay lá non nào, đều bị vặt hết, vặt cả ngọn.
Hết loại cây ấy, con người lại phải thực nghiệm sang một loại cây khác. Cuối cùng chỉ gần 3 tháng, từ đầu tháng 1 đến cuối tháng 3 năm 1979, cả 2 bên triền rừng, từ đường lấn sâu vào rừng chừng 15- 20 mét, đa số lá cây rừng sạch trơn, như có thỏ hay hươu cao cổ, ăn lá cây vậy.
Từ cán bộ hay công an võ trang nào cũng thấy chính mình, mà còn không có rau. Vả lại, tụi nó nằn nì (cả toán ai cũng nằn nì) chỉ tranh thủ vặt những lá cây rừng. Cán bộ chỉ mất 5- 10 phút, đã ban cho những thằng tù một đặc ân, mà chúng chả có mất cái gì cả. Chúng được những tên tù khẩn khoản, nhìn với những con mắt ân huệ, biết ơn.
Không những là khu biệt kích rồi lan dần ra khu hình sự, cụ thể là khu biệt kích gần 300 người, nếu có người chết là rất cá biệt. Nếu không nói là không một ai bị chết, vì thiếu chất rau xanh, ở giai đoạn ấy. Cả một mùa Xuân, của cây rừng 2 bên đoạn đường ấy, không còn khoe hương, khoe sắc với chúa Xuân như mọi năm. Nhưng, chúng đã làm được một việc thiết thực hơn nghệ thuật. Chúng đã cưu mang, giúp đỡ bọn biệt kích sống còn. Chúng đã phục vụ, nhân sinh.
Có lần chân tôi bước theo hàng đôi của toán trên con đường "huyết mạch" đó, óc của tôi miên man chạy ngược về những năm tháng trước đây. Khi ấy CIA và Cục Trung Ương tình báo của VNCH, dậy tôi trong giai đoạn thực tập "mưu sinh" sống trong rừng, mà không có lương thực. Ngoài những chuyện bẫy, bắt cá và thú rừng, củ, rễ cây rừng v.v… Từ trong trí óc đã đẩy ra miệng tôi thành cười mỉm: Có thể rồi đây, các cơ quan tình báo nổi tiếng, Quốc Tế như CIA, Hắc Long của Nhật, I S của Anh, gestapo (Đức), KGB, RU, Liên Xô v.v… Cần phải nghiên cứu bổ sung, trong bài học "mưu sinh".
Tối hôm qua về trại, tôi nghe loáng thoáng Trung Quốc lại đem quân vượt biên giới, đánh VN. Tôi bí mật tìm hiểu, nguồn tin là do anh Hoàng Tồn được ra tự giác, từ mấy tháng trước. Anh có một chiếc xe ba gác, thường chở những đồ tiếp tế cho gia đình của các anh em biệt kích, từ trong Nam ra tiếp tế. Tôi đã đến anh Tồn để biết sơ qua, có tính cách khái niệm. Một vấn đề tương đối lớn, tương đối sâu trong nội bộ của Đảng CS Quốc Tế.
Việt Nam đánh Cam-pu-chia (7/1/79), rồi bây giờ Trung Cộng lại đánh Việt Nam (17/2/79). Có thể đây là những tiền đề, cho những bước kế tiếp của các Đảng CS. Cũng có những dư luận về Lý Cà Sa. Từ nhiều nguồn tin, LCS có cầm quân trở lại Lầu Cai, là đúng! Chỉ vì tôi có một chút xíu dây dưa liên quan với Cà Sa về không gian, và thời gian mà thôi! Sáng hôm nay khi toán chúng tôi ra tới lán thủ công, anh Đôn toán trưởng đã đến tổ kỹ thuật gọi tôi:
- Bình ơi! Ông Hoàn kêu anh vào ông ấy gặp!
Ít khi cán bộ toán gọi, nên tôi vội vàng đi về phòng cán bộ toán. Thấy tôi vào, y chỉ tay vào chiếc ghế trước bàn:
- Anh ngồi đi!
Tuy y chỉ nói như thế! Nhưng thái độ và cách nói tỏ ra rất thân tình. Thấy thân tình, tôi lại phải cảnh giác, nên tôi vẫn ngồi yên chờ.
May qúa! Y đã vào đề ngay, y nói:
- Ông Giám thị Đại úy Hà văn Nho, muốn đóng một cái tủ lệch, kiểu Đức bằng gỗ lát!
Đến đây tôi đã hiểu, chỉ là vấn đề nghề nghiệp, thì có gì cần nói đâu. Tôi xuống tổ cũng nói sơ qua cho Chăn và Tinh, để sắp xếp những công việc đang làm, v.v… Đóng đồ cho ông Giám thị trại, cũng chẳng có cái gì hơn. Nhưng, tâm lý ai cũng vậy, nhất là ở một cái xã hội bao cấp, thì càng phải quan tâm nhiều đến những cái, riêng tư. Nghĩa là nếu muốn cái tủ gỗ tốt, đóng cẩn thận thì ít nhiều phải làm cho người thợ đó vui lòng, dù không phải nói ra bằng lời, khi y ở một cương vị là thủ trưởng, của cái khu vực đó.
Tổ kỹ thuật lại ở ngay đầu lán thủ công, từ đây nhìn ra đường chỉ 2 chục mét, vì thế đã nhiều ngày Lầu chí Chăn và Vũ viết Tinh đã đổ xô ra, khi có một đoàn người trong Nam ra tiếp tế. Tâm trạng của Chăn và Tinh như vậy cũng là đương nhiên, vì hai người đã nhận được qùa của gia đình, từ trong Nam gửi ra. Chỉ có tôi, tôi có một chút ý nghĩ hơi lẩm cẩm, nên tôi chả mong ngóng? Dù rằng: Biết đâu... trong đám người đi ấy! Lại chẳng có người của... chính tôi? Đúng như tôi đã suy ngẫm, từ những ngày đầu vào trong nhà tù VC. Bản tính tạo nên cuộc đời, nói khác đi chính bản tính của mình đã tạo ra cuộc sống của mình. Bản tính lại không thay đổi được. Giang sơn thì dễ chuyển, nhưng bản tính thì khó rời.
Tôi đã mang một quan điểm: Cái gì đẹp, tốt, hay, hãy mang đến cho bố mẹ, họ hàng, người thân của mình cùng hưởng. Ngược lại những sự đau thương bất hạnh, thì hãy kiên trì chịu đựng, đừng bắt người thân chịu lây với mình. Chính vì những ý nghĩ lẩn thẩn ấy, từ khi miền Nam bị mất, tôi nhất quyết không viết thư về Nam.
Dù cho nhiều cán bộ giáo dục đã khích lệ cổ vũ anh em biệt kích, hãy viết thư thăm hỏi và báo tin cho thân nhân ở miền Nam, biết về mình. Tôi hiểu trước đây biệt kích GĐ (biệt kích gián điệp) khai báo với chúng, chúng chưa có dịp xác minh. Bây giờ là lúc chúng đến từng địa phương, từng gia đình để kiểm tra lại sự việc. Vì thế về một mặt, không những chúng khích lệ, mà còn tạo điều kiện cho biệt kích GĐ viết thư, về cho gia đình thân nhân. Mãi chúng cũng không thấy, tôi viết một lá thư nào về miền Nam. Chúng đã hỏi thẳng tôi, tại sao?